Mô hình “đại học trong đại học” như ở Việt Nam có nét tương đồng với một số nước trên thế giới, song khác biệt ở mức độ tự chủ, theo các chuyên gia.
Thời gian qua, mô hình đại học hai cấp như đại học quốc gia và vùng nhiều lần gây tranh cãi. Những đại học này có các thành viên với đầy đủ cơ cấu, tổ chức, tư cách pháp nhân như một trường đại học thông thường.
Nhiều nhà quản lý nhìn nhận đây là bất cập, thế giới không có mô hình như vậy nên đề xuất bỏ. Một chuyên gia có 40 năm nghiên cứu về giáo dục đại học ở Việt Nam cho hay mô hình phổ biến nhất trên thế giới là một đại học (university), bên trong có các trường (school, college), viện (institute), khoa (faculty). Đại học sẽ chịu trách nhiệm cấp bằng, quản lý.
Tuy nhiên, TS Vũ Minh Ngọc, cựu nghiên cứu sinh Đại học Cầu đường Paris, cho biết Pháp cũng có các “đại học trong đại học” như Việt Nam, tồn tại ở hai dạng.
Một là đại học có các đơn vị trực thuộc. Ví dụ Đại học Paris Saclay có 5 khoa, 3 trường cao đẳng công nghệ, 4 đại học danh tiếng (graduated school), một đại học kỹ sư Polytech, hai trường đại học thành viên (university) và 7 cơ quan nghiên cứu.
Hai là hệ thống Polytech – liên minh từ các đại học đào tạo kỹ sư trên cả nước. Liên minh này có Đại học Polytech Paris – Saclay (trường nằm trong Đại học Paris Saclay), Polytech Lille (nằm trong Đại học Lille)…
Tương tự, PGS Trần Lê Hưng, Đại học Gustave Eiffel, Pháp, kể đại học này mới thành lập năm 2020, là tập hợp của Viện nghiên cứu IFSTTAR, trường EIVP, EISEE…
Tại Anh, Đại học London gồm gần 20 thành viên, gồm cả “university”, “college”, “school”, “institute”, có thể kể đến King’s College London (KCL), University College London (UCL), trường Kinh tế và Khoa học chính trị London (LSE).
Ông Huỳnh Lưu Đức Toàn, Phó giáo sư làm việc tại Đại học Queen Mary London, Anh, cho biết Đại học London hình thành từ năm 1836, ban đầu chỉ như hội đồng thi, cấp bằng cho sinh viên từ UCL và KCL. Đến năm 1900, trường được tái cơ cấu thành mô hình liên đoàn như ngày nay.
Điểm chung so với Việt Nam là “trường mẹ” và “trường con” đều có tư cách pháp nhân, chủ tịch trường riêng. Các “trường con” là cơ sở giáo dục đại học độc lập, tự cấp bằng.
Lợi ích, theo PGS Hưng, là sẽ tạo ra sự liên kết, tăng sức cạnh tranh khi đăng ký các đề tài nghiên cứu quốc tế, tăng số lượng công bố, cũng như thu hút đầu tư hay tận dụng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm. Sinh viên được lợi khi các chương trình, các trường có sự kết nối, dễ dàng trao đổi, chuyển đổi chương trình.
Điểm hạn chế là sự thiếu ổn định. Nếu không hợp về chính sách phát triển, trong khi các trường con đều tự chủ tài chính, tuyển sinh… nên hoàn toàn có thể tách ra khỏi trường lớn.
“Ví dụ trường ENPC trước ở trong cụm đại học Paris-Est, nhưng sau lại tách ra để vào trường IPP từ năm 2024, tạo ra nhiều sự xáo trộn”, anh Hưng nói thêm.

Về điểm khác, theo ông Nguyễn Xuân Khánh, phó giáo sư tại Đại học Oulu, Phần Lan, chuyên gia về Giáo dục và Trí tuệ nhân tạo ứng dụng, là nguồn gốc hình thành. Trên thế giới, có trường theo mô hình “đại học trong đại học” do yếu tố lịch sử; có trường do muốn quản lý chung tài chính, nhân sự, chiến lược nên tập hợp với nhau.
Còn tại Việt Nam, đại học quốc gia hay vùng thành lập bởi quyết định hành chính, với vai trò đầu tàu chiến lược. Do đó, tính ổn định cũng cao hơn, theo PGS Trần Lê Hưng.
Về mức độ tự chủ, các “trường con” ở Việt Nam còn hạn chế, dù đã được cải thiện gần đây. Họ chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước và “đại học mẹ”. Họ có tư cách pháp nhân nhưng vẫn phải xin “trường mẹ” phê duyệt chỉ tiêu và phương thức tuyển sinh, trong khi hàng trăm trường đại học khác ở Việt Nam, cũng như các trường ở Pháp, Anh nói trên được tự quyết.
Trong dự thảo báo cáo về tác động của Luật Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nhìn nhận mô hình như đại học quốc gia và vùng gây khó khăn, phức tạp, đặc biệt khi thực hiện cơ chế tự chủ.
TS Vũ Minh Ngọc, PGS Nguyễn Xuân Khánh và Trần Lê Hưng đều cho rằng với mô hình hiện tại, các đại học quốc gia vẫn có thể phát triển, nhưng cần cải thiện một số điểm.
PGS Khánh và Hưng nhìn nhận cần quy định nhiệm vụ rõ ràng của “trường con” và “trường mẹ”. Hay đại học nên làm rõ trường thành viên tập trung theo hướng nghiên cứu hay đào tạo phổ thông, theo ông Khánh. Nếu đào tạo, các trường cần được tuyển sinh nhiều. Còn nếu nghiên cứu, họ cần coi trọng chất hơn lượng.
Cùng đó, ông Ngọc cho rằng giữa các “trường con” cần tăng sự liên kết, công nhận chương trình của nhau và trao đổi sinh viên.
“Như vậy, sinh viên đang học ngành này có thể chuyển sang ngành khác học lại một cách thuận lợi, nếu thấy định hướng ban đầu không phù hợp”, PGS Hưng ví dụ.
Với vị chuyên gia ở trên và TS Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục đại học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, khác biệt và cũng là điểm bất cập lớn nhất của các đại học hai cấp so với mô hình phổ biến trên thế giới là ở bộ máy quản trị.
Cả hai thấy có sự chồng chéo khi cả “trường mẹ” và “trường con” đều có hội đồng trường, ban giám đốc/giám hiệu. Điều này đã được Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Quốc hội chỉ ra, đề nghị Bộ xem xét, sửa đổi luật về sự tồn tại song song của hội đồng trường đại học thành viên và hội đồng đại học quốc gia.
Mô hình hai cấp còn gây cồng kềnh về quản lý, lãng phí. Ví dụ, Đại học Quốc gia Hà Nội có các phòng chức năng, hành chính…, các trường đại học trực thuộc cũng có, nên trùng lặp.
“Các trường con có tư cách pháp nhân riêng tương tự ở nước ngoài nhưng cấu trúc của các trường trên thế giới đơn giản hơn rất nhiều”, vị chuyên gia ở trên nhìn nhận. Chẳng hạn, Đại học Harvard, Mỹ, có bộ phận hợp tác quốc tế, nhân sự, thì các “trường con” không có bộ phận riêng như vậy nữa, chủ yếu làm công tác chuyên môn, ít về hành chính.
Nhóm này đề xuất đại học quốc gia và các đại học vùng chuyển về mô hình đại học một cấp như Bách khoa Hà Nội hay Kinh tế Quốc dân, tức một “đại học mẹ” với các trường trực thuộc, chung bộ máy quản trị.
“Bằng cách này, Đại học Quốc gia Hà Nội, TP HCM và các đại học vùng vẫn có thể giữ vai trò đầu tàu, dẫn dắt, đồng thời đạt hai mục tiêu lớn khác là hội nhập với mô hình quốc tế và tránh chồng chéo, lãng phí”.
Theo VNE